Nổi tiếng và có quy mô phải kể đến bánh đa Kế ở xã Dĩnh Kế (Bắc Giang), rồi bánh đa làng Nông Xá (Hải Phòng), làng Dụ Đại (Thái Bình),… nhưng mỗi làng nghề đều có một cách làm riêng, bí quyết riêng, không làng nào giống làng nào.
Nằm ở bên bờ sông Chu, làng Minh Châu (còn có tên Nôm là làng Chòm) ở Thiệu Hóa (Thanh Hóa) từ lâu đã nổi tiếng với nghề làm bánh đa với lịch sử hàng trăm năm. Chẳng ai còn nhớ nghề làm bánh đa của làng có từ bao giờ, nhưng nghề đã gắn chặt với cái tên của làng. Trải qua bao thăng trầm của thời gian nhưng cái nét độc đáo của làng nghề vẫn còn lưu giữ lại đến tận ngày nay.
Bánh đa làng Minh Châu dày và nhiều vừng, không như bánh đa làm ở các nơi khác. Bánh đa nhiều vừng nên ăn ngon hơn. Ngoài ra, để phù hợp với số lượng người ăn nhiều hay ít mà bánh đa cũng được làm nhiều loại có kích thước to nhỏ khác nhau.
Bánh đa làng Minh Châu dày và nhiều vừng không giống như bánh đa ở những nơi khác
Khác với một số làng nghề khác khi làm bánh nguyên liệu thường pha lẫn cả các loại nguyên liệu khác như cơm nguội, khoai lang, bột sắn hay pha bột nghệ cho đẹp màu, bánh đa làng Minh Châu chỉ dùng nguyên liệu duy nhất là bột gạo với vừng. Theo những người làm bánh lâu năm ở làng thì chỉ làm bằng bột gạo thì bánh đa sau khi quạt mới giữ được độ giòn và thơm lâu, không bị dai dù có để lâu trong không khí.
Bánh đa đẹp hay không phụ thuộc vào nghệ thuật của người quạt nướng bánh. Khi quạt bánh phải đều tay để giữ cho đều gió, đều lửa và lật bánh thật đều, có như vậy bánh mới chín đều và có màu vàng rộm tự nhiên. Ngoài ra, than dùng để quạt bánh phải là than hoa gốc, nghĩa là than đốt từ những gốc cây to, vì chỉ than này mới cháy lâu, lửa đượm và đều, không chóng tàn như các loại than khác.
Công việc của người làm bánh đa ở làng Minh Châu là công việc vất vả, thường xuyên phải thức khuya dậy sớm. Buổi tối, trước khi đi ngủ phải đem gạo ra ngâm khoảng từ 5 – 6 tiếng. Gạo làm bánh đa không phải loại gạo nào cũng có thể làm được mà phải là gạo tẻ đã cũ và khi xay xát chỉ xát dối, còn vỏ lụa của gạo. Ngoài ra, gạo làm bánh còn phải là loại gạo có ít nhựa, khi làm bánh mới mịn và nhất là khi quạt trên than hồng bánh sẽ nở đều mà không bị vỡ nứt (ngày nay, các loại gạo mà người làng Minh Châu hay dùng để làm nguyên liệu làm bánh đa là gạo 203, gạo Q5).
Gạo làm bánh đa không phải loại gạo nào cũng có thể làm được mà phải là gạo tẻ đã cũ và khi xay xát chỉ xát dối, còn vỏ lụa của gạo
Bột làm bánh được pha vào thêm một ít muối, sau đó được múc và dàn đều trên một chiếc rá tre có lót tấm vải và đặt trên một chiếc nồi nước lớn đang xông hơi, vừng được rắc đều hai bên mặt chiếc bánh. Vừng làm bánh phải chọn những vừng có màu vàng, hạt tròn mẩy, có như vậy khi ăn, bánh mới có vị thơm và béo, bùi. Bánh tráng xong được vớt ra đặt lên các giàn đan bằng tre và đem ra phơi nắng. Nếu nắng to, bánh chỉ cần phơi một nắng là được. Đôi tay người thợ quạt bánh nhanh thoăn thoắt không ngơi nghỉ: một tay cầm quạt nan, tay còn lại liên tục lật chiếc bánh đa đang hơ trên lửa để chín cho đều, không bị cháy. Một chiếc bánh đa quạt thành công phải là một chiếc bánh có màu vàng rộm và nở phồng đều nhau, nếu chỗ nào còn lõm là bột gạo chưa chín, phải quạt lại.
Sau mấy trăm năm, nghề làm bánh đa ở làng Minh Châu vẫn sống cùng thời gian, đó là nhờ ý thức gìn giữ của nhiều thế hệ trong làng. Giờ đây, nhiều người đã coi nghề làm bánh là nghề chính chứ không chỉ đơn thuần là nghề phụ làm lúc nông nhàn. Nhìn những dãy bánh đa phơi dài trên các triền đê vào những trưa nắng sẽ thấy ấm lòng về một sức sống mãnh liệt của làng nghề.